Nguyên văn:
Chữ giản thể: 伤寒一日,太阳受之,脉若静者,为不伝。颇欲吐,若躁烦,脉数急者,为伝也。伤寒一日,太阳受之,脉若静者,为不伝。颇欲吐,若躁烦,脉数急者,为伝也。
Chữ phồn thể: 傷寒一日,太陽受之,脈若靜者,為不伝。 頗欲吐,若躁煩,脈數急者,為伝也。傷寒一日,太陽受之,脈若靜者,為不伝。 頗欲吐,若躁煩,脈數急者,為伝也。
Phiên âm: Shānghán yī rì, tàiyáng shòu zhī, mài ruò jìng zhě, wéi bù yún. Pō yù tǔ, ruò zào fán, mài shù jí zhě, wèi yún yě.
Chữ hán việt: Thương hàn nhất nhật, thái dương thụ chi, mạch nhược tĩnh giả, vi bất truyền, pha dục thổ, nhược táo phiền, mạch sác cấp giả, vi truyền dã.
Giải nghĩa:
Đại cương: Kinh văn trên khiến cho độc giả đặt câu hỏi, chỉ dựa vào triệu chứng thì liệu có biết sự thay đổi bệnh thái dương hay không?
Nghĩa tiếng Việt: Ngày đầu bị thương hàn, Thái Dương bị bệnh, nếu mạch không thay đổi (tĩnh) bệnh không truyền đi. Nếu người bệnh cảm giác buồn nôn, hoặc phiền táo, mạch sác và cấp bệnh đã truyền đi.
Bình luận: Những điểm tranh cãi hoặc cần làm rõ hơn.
Kinh văn khá tối nghĩa khi mới đọc qua, Do vậy cần phải đọc thật kỹ và suy luận.
Thương hàn ngày thứ nhất , kinh thái dương bị nhiễm bệnh (伤寒一日,太阳受之), không nên hiểu máy móc ngày đầu tiên mà ý nói thời gian mới nhiễm hàn. Vì hàn tà có thể truyền nhanh chậm, nhiều khi thái dương thụ tà chưa chắc nhất thiết phải có triệu chứng của thái dương, bời vì tà truyền rất nhanh vô thiếu dương và dương minh, thậm chí là tam âm kinh.
Mạch tĩnh (脈靜) Thực ra trong Đông Y không có y văn nào mô tả và không có tên, nên hiểu là không phải là mạch động (ý không phải mạch sác, khẩn). Khi mạch sác, khẩn bn thường biểu hiện kích thích, vật vã, phong hàn đã chuyển hóa thành nội nhiệt.
.... Còn tiếp.
Kết luận: .....